TS. Nguyễn Thị Minh Hòa*
ThS. Hà Tuấn Anh**
Đăng trên Số 3 (144) Tạp chí Dân số & phát triển
Dân tộc Mảng còn có tên gọi khác là Mảng Ư, Xá Lá vàng. Người Mảng sử dụng ngôn ngữ Môn-Khmer. Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 2009, dân tộc Mảng hiện có 3700 người, phân bố chủ yếu tại tỉnh Lai Châu (trên 98,1%), phần lớn sinh sống ở nông thôn, vùng núi (98,0%). Người Mảng cư trú theo dòng họ tại 4 huyện Sìn Hồ, Mường Tè, Phong Thổ và Mường Lay, tỉnh Lai Châu. Theo phong tục tập quán, mỗi bản có trưởng bản cai quản cùng với hội đồng già làng. Dân tộc Mảng thuộc nhóm dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế-xã hội thấp hơn so với các dân tộc khác. Chính vì vậy, nhận thức, thái độ, hành vi của đồng bào dân tộc Mảng đối với việc thực hiện các quy định về tuổi đăng ký kết hôn cũng có những đặc trưng riêng. Kết quả điều tra khảo sát năm 2011 của Viện Chiến lược và chính sách Y tế, Bộ Y tế, đối với197 người dân tộc Mảng tại Lai Châu, trong đó 130 đối tượng là các cặp vợ chồng và 67 đối tượng là vị thành niên. Kết quả nghiên cứu
1. Gần 1/2 số người được hỏi chưa biết đến quy định về tuổi đăng ký kết hôn của nam và nữ
Chỉ có 53,5% người dân được hỏi biết đến quy định về tuổi đăng ký kết hôn của nam và nữ, tỷ lệ này ở những người đã có gia đình và vị thành niên tương ứng là 59,2% và 47,8%. Như vậy, có tới gần 50,0% người dân được hỏi chưa hề nghe đến quy định về tuổi đăng ký kết hôn
Biểu đồ 1. Mức độ hiểu biết về Quy định tuổi đăng ký kết hôn
Tuy nhiên, trong số những người có biết đến quy định này thì tỷ lệ hiểu đúng về tuổi kết hôn của nam nữ theo luật định còn thấp, dưới 50,0%. Đặc biệt, chỉ có 4,6% đối tượng đã có gia đình hiểu đúng về tuổi kết hôn của nam giới theo luật định. Không có sự khác biệt nhiều về mức độ hiểu đúng luật giữa hai nhóm đối tượng có gia đình và vị thành niên về tuổi kết hôn của nữ giới.
Biểu đồ 2. Mức độ hiểu đúng về quy định tuổi đăng ký kết hôn
2. Chưa có sự đồng tình cao của các nhóm đối tượng về tuổi đăng ký kết hôn của nam và nữ theo luật định.
Có 46,2% người dân được hỏi đồng tình với quy định về tuổi đăng ký kết hôn “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên”. Có sự khác biệt lớn về tỷ lệ này giữa hai nhóm đối tượng có gia đình và vị thành niên, tương ứng là 50,0% và 38,8%. Cần đặc biệt lưu ý, nhóm vị thành niên là những người có trình độ học vấn cao hơn, nhưng lại có thái độ đồng ý với quy định nói trên rất thấp.
Phân tích trên cho thấy, không những hiểu biết, nhận thức đối với “quy định về tuổi kết hôn” của các nhóm đối tượng còn rất hạn chế, người dân cũng chưa có sự đồng tình cao.
Biểu đồ 3. Mức độ đồng tình đối với quy định về tuổi đăng ký kết hôn
3. Hiểu biết về quy định không kết hôn cùng huyết thống của người dân thấp
Trong số 130 người đã kết hôn được điều tra, chỉ có 44,6% biết về “quy định không kết hôn cùng huyết thống”. Đây là một vấn đề cần sớm phải giải quyết, nếu không, kết hôn cùng huyết thống là hành vi vi phạm pháp luật và quan trọng hơn, nó sẽ gây ra thoái hóa giống nòi. Do không biết có quy định này, hiểu biết về hậu quả của hôn nhân cận huyết đối rất thấp, tất cả đều do “số trời”.
“Người ta lấy nhau có người vẫn đẻ bình thường, nhưng có nhiều người lấy nhau họ không đẻ được. Có người số trời không cho, nên họ không đẻ được. Người dân tộc ta bảo là họ gần gũi nhau quá nên không đẻ được. Thấy các bà con dân tộc nói thế… Kết hôn cận huyết không ảnh hưởng đến sức khoẻ, không thấy trường hợp nào sinh ra bị dị tật hay khuyết tật”. (nữ, 45 tuổi, có 4 con, xã Nậm Ban, huyện Sìn Hồ, Lai Châu)
“Dân tộc Mảng có người đẻ được, có nhiều người không đẻ được. Ở xã này có khoảng 10 cặp vợ chồng không đẻ được, cái này không biết là vì cái gì”. (cán bộ xã Nậm Ban, huyện Sìn Hồ, Lai Châu)
4. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cùng huyết thống của đồng bào dân tộc Mảng diễn ra phổ biến
Bảng 1. Tuổi kết hôn lần đầu và tuổi sinh con đầu lòng của các cặp vợ chồng
Độ tuổi |
Kết hôn lần đầu (%) |
Sinh con đầu lòng (%) |
Dưới 18 tuổi |
14,6 |
20,8 |
Từ 18 đến 25 tuổi |
13,1 |
12,3 |
Từ 26 đến 29 tuổi |
61,5 |
65,4 |
Khác |
10,8 |
1,5 |
Tổng |
100,0 |
100,0 |
Có tới 14,6% cặp vợ chồng kết hôn lần đầu khi chưa tới 18 tuổi. Hậu quả là tỷ lệ sinh con đầu lòng của các cặp vợ chồng ở độ tuổi này khá cao (20,8%). Số liệu trên cho thấy, không ít các cặp vợ chồng đã có con trước khi đủ tuổi kết hôn. Điều này được khẳng định thông qua các thông tin định tính.
“15-16 tuổi đã đẻ rồi. Chồng 30 tuổi vẫn lấy vợ 15-16 tuổi là bình thường. Người dân tộc Mảng ở đây đăng ký kết hôn theo đúng độ tuổi, nữ 18, nam 20, nhưng thường thì họ cứ ở với nhau trước rồi mới đăng ký sau” (cán bộ xã Nậm Ban, huyện Sìn Hồ, Lai Châu)
“Về tảo hôn, thì bây giờ vẫn còn nhiều cặp, nhưng so với trước kia thì có ít hơn đôi chút”. (cán bộ xã Bum Nưa, huyện Mường Tè, Lai Châu)
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình, nam nữ có thể kết hôn với nhau khi có mối quan hệ huyết thống cách ít nhất ba đời, nhưng tình trạng hôn nhân cận huyết của đồng bào dân tộc Mảng diễn ra khá phổ biến:
“Dân số dân tộc không phát triển, có thể do lấy nhau cận huyết và các dân tộc khác không muốn kết hôn với dân tộc Mảng…tình trạng hôn nhân cận huyết là rất nhiều”. (cán bộ tại huyện Sìn Hồ, Lai Châu)
“Dân tộc Mảng được lấy nhau cùng họ, nhiều người vẫn lấy nhau”. (nữ, 45 tuổi, có 4 con, xã Nậm Ban, huyện Sìn Hồ, Lai Châu)
Hậu quả do tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống là không nhỏ. Một mặt, trẻ em sinh ra thường bị suy dinh dưỡng do các cặp vợ chồng này không có điều kiện kinh tế và không biết cách chăm sóc con cái. Mặt khác, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bình thường của thai nhi khi người mẹ chưa sẵn sàng về mặt tâm sinh lý để mang thai và sinh con. Đặc biệt, hành vi kết hôn cùng huyết thống sẽ gây ra thoái hóa giống nòi. Thiếu hiểu biết về pháp luật, dẫn đến có hành vi vi phạm chính sách DS-KHHGĐ của một bộ phận dân tộc Mảng. Sở dĩ có tình trạng trên là do:
Thứ nhất, điều kiện kinh tế khó khăn. Điều này dẫn đến tình trạng người dân hoặc thất học hoặc nghỉ học sớm, kéo theo hạn chế về nhận thức.
“Về đời sống, họ vẫn chưa có điện, chỉ có một số rất ít có điện tự phát cho nên cả bản chỉ có vài cái TV” (cán bộ huyện Sìn Hồ, Lai Châu)
“Về nước sạch thì dân tộc Mảng chưa được đầu tư…Về điện, đường, trường, trạm thì ở Nậm Ban còn đang khó khăn” (cán bộ huyện Sìn Hồ, Lai Châu)
Thứ hai, trình độ học vấn thấp. Trình độ học vấn là một trong những yếu tố rất quan trọng quyết định tới nhận thức, thái độ và hành vi về việc thực hiện các quy định pháp luật của nhà nước, trong đó có quy định về tuổi đăng ký kết hôn, kết hôn cùng huyết thống.
“Các tờ rơi và áp phích cũng có ở thôn bản để tuyên truyền, nhưng bà con biết ít chữ nên hạn chế nhận thức”. (cán bộ xã Hua Bum, huyện Mường Tè, Lai Châu)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trình độ học vấn của người dân được phỏng vấn rất thấp với hơn một nửa (59,9%) mới tốt nghiệp tiểu học trở xuống. Tỷ lệ này ở các đối tượng đã kết hôn lên tới 79,3%. Điều đáng lưu ý, nhóm vị thành niên là nhóm trong độ tuổi đi học, nhưng tại thời điểm điều tra vẫn có tới gần 6,0% mù chữ. Trình độ học vấn kéo theo hạn chế về hiểu biết và tuân thủ pháp luật.
Thứ ba, công tác truyền thông về quy định tuổi kết hôn và không kết hôn cận huyết thống chưa được chú trọng đúng mức.
Thứ tư, trong cộng đồng dân tộc Mảng còn tồn tại những phong tục tập quán lạc hậu như vị thành niên sống chung, sinh con trước; kết hôn sớm, lấy người cùng họ tộc.
Khuyến nghị
Tập trung xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở cho đồng bào dân tộc Mảng. Bên cạnh việc ưu tiên dạy nghề, tạo việc làm cho các đối tượng nghèo, cần hướng dẫn người dân sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các chương trình, như Nghị quyết số30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ, Quyết định số 1672/QĐ-TTg ngày 26 tháng 9 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ nhằm giúp đồng bào dân tộc Mảng phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Đồng thời tuyên truyền, vận động, giáo dục đồng bào tinh thần tự lực, ý chí vươn lên để thoát nghèo, từng bước thay đổi tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động truyền thông trực tiếp về chính sách dân số, trong đó có nội dung về tuổi kết hôn và kết hôn cận huyết thống tại cơ sở. Cần thường xuyên chủ động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, kỹ năng truyền thông chuyển đổi hành vi cho 100% đội ngũ cán bộ truyền thông từ huyện đến cộng tác viên ở cơ sở. Đặc biệt, cần trang bị cho người có uy tín trong cộng đồng như già làng, trưởng bản những kỹ năng, kiến thức nhằm phát huy hơn nữa vai trò của họ trong việc vận động bà con không kết hôn với người cùng huyết thống, lấy vợ chồng khi còn quá trẻ.
Lồng ghép nội dung vào các hoạt động thường xuyên tại thôn, bản như: họp cộng đồng, các buổi chiếu phim lưu động, các phiên chợ. Ngoài ra, cần xây dựng các sản phẩm truyền thông phù hợp với bản sắc văn hoá, phong tục, tập quán, dễ hiểu và phù hợp với nhận thức, trình độ của đồng bào dân tộc Mảng. Tiếp tục lồng ghép các nội dung cấm tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống vào hương ước, quy ước của thôn, bản và coi đó là một trong các tiêu chí quan trọng trong việc bình xét các danh hiệu văn hoá.
Tiến hành đồng thời các giải pháp trên sẽ giúp đồng bào dân tộc Mảng nâng cao được nhận thức, hiểu được sự nguy hại của việc tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, có trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách, pháp lệnh dân số.
* Đại học Lao động – Xã hội
** Đại học Kinh tế quốc dân