(Ủy ban Các vấn đề xã hội của quốc hội đề xuất)
Chủ nhiệm đề tài:
ThS. Lưu Bích Ngọc
Có thể thấy trong xã hội hiện đại, bảo hiểm xã hội (BHXH) là một nhu cầu cần thiết, khách quan của con người và trở thành một trong những quyền cơ bản của con người. Xã hội nào có chính sách BHXH được thực hiện tốt thì động viên được tính tích cực xã hội của người lao động và xã hội đó càng phát triển và ổn định.
Theo đánh giá chung từ nhiều nghiên cứu, chính sách BHXH ở Việt Nam được đưa ra phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Trong giai đoạn đầu bao cấp, khi nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, điều kiện chưa cho phép nên mới chỉ thực hiện BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang với nguồn kinh phí chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Khi nền kinh tế chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, người lao động trong các thành phần cần được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trong sản xuất kinh doanh và trong hưởng thụ chính sách xã hội, trong đó có BHXH. Vì vậy, việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi người lao động trong các thành phần kinh tế là rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn khách quan của đất nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách về BHXH trong thực tế còn nhiều bất cập. Theo quy định tại Điều lệ BHXH do Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định 12/CP, lao động làm việc trong cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang, trong các doanh nghiệp và các đơn vị sản xuất sử dụng từ 10 lao động trở lên phải tham gia BHXH bắt buộc. Nhưng theo báo cáo của nhiều địa phương, đối tượng tham gia bảo hiểm chủ yếu vẫn chỉ là lao động ở khu vực nhà nước, song cũng chỉ chiếm có 60% số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Cụ thể, tính đến thời điểm này, chỉ có 4,1 triệu người lao động tham gia BHXH, trong số đó có 1,88 triệu người làm việc ở các doanh nghiệp nhà nước; 1,29 triệu người làm việc ở các cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước, 413 nghìn người thuộc lực lượng vũ trang và 517 nghìn người làm việc ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Như vậy là còn tới 40% số lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc ở khu vực tập thể, cá thể chưa được tham gia. Điều này đã làm quyền lợi của người lao động làm việc ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị ngoài quốc doanh rất thiệt thòi.
Điểm quan trọng nữa là Bộ luật Lao động đã quy định áp dụng hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện cho người lao động, nhưng cho đến nay, loại hình BHXH tự nguyện vẫn chưa được ban hành. Điều này đã dẫn đến thực trạng, hiện nay hơn 30 triệu lao động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ làm việc ở các đơn vị sử dụng lao động dưới 10 người có nguyện vọng được tham gia BHXH nhưng chưa có loại hình BHXH nào phù hợp để tham gia.
Như vậy, tính chung trên cả nước hiện mới chỉ có khoảng chưa đến 10% tổng số lao động được tham gia và hưởng chế độ BHXH. Thực trạng trên thực sự bức xúc nhưng cũng mới chỉ tồn tại khi mà quy mô dân số nước ta hiện đang ở mức 78 triệu dân (Số liệu thống kê năm 2000). Ước tính đến năm 2030, dân số Việt Nam sẽ đạt đến con số 100 triệu với một lực lượng lao động đông khoảng 49 triệu người thì nhu cầu về bảo hiểm xã hội sẽ còn tăng cao hơn nữa.
Đứng trước nhu cầu trên, việc mở rộng chính sách BHXH để thu hút người lao động tham gia là hết sức cấp bách trong thời gian này. Đã đến lúc, Nhà nước cần phải xem xét đến việc ban hành chính sách thực hiện chế độ “Bảo hiểm xã hội tự nguyện” theo phương thức người lao động tự đóng góp, Nhà nước bảo đảm đầu tư sinh lời trên khoản đóng góp đó, để thu hút bộ phận lớn người lao động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc hoặc thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng có nguyện vọng tham gia.
Để giúp cho việc ban hành chính sách về BHXH tự nguyện trong thời gian tới sát với thực tế, Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội đã đề nghị Viện Dân số và các vấn đề xã hội, trường ĐHKTQD thực hiện một nghiên cứu về “Người lao động với Bảo hiểm xã hội tự nguyện”. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích tìm hiểu nhu cầu, khả năng tham gia của người lao động đối với hình thức BHXH tự nguyện cũng như thái độ, mong muốn của chính bản thân người lao động đối với phương thức tham gia, đóng góp và cơ chế hưởng chế độ bảo hiểm sau này. Kết quả thu được từ nghiên cứu này sẽ là những thông tin cơ sở quan trọng giúp cho các nhà hoạch định chính sách sau này trong quá trình xây dựng, hoàn thiện một chính sách về chế độ BHXH tự nguyện phù hợp và thu hút được đông đảo người dân lao động tham gia.
File đính kèm: 1-NguoilaodongvoiBHXHtunguyen.pdf (595)