(Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. Mã số B92-20-10)
|
Chủ nhiệm đề tài:
TS. Nguyễn Đình Cử
Thành viên nhóm nghiên cứu:
PGS.TS. Tống Văn Đường, Phan Đình Thế
Nguyễn Nam Phương; Vũ Hoàng Ngân
|
1. Lý do nghiên cứu
Một trong những phương pháp thường được áp dụng để phân tích mức sinh hiện nay ở nước ta là so sánh mức sinh các vùng địa lý. Chẳng hạn, khi phân tích kết quả điều tra mẫu trong Tổng điều tra Dân số năm 1989 đã thu được kết quả sau: TFR thấp nhất ở khu vực Đông Nam Bộ với 2,9 con và Đồng bằng sông Hồng 3 con, sau đó là Đồng bằng sông Cửu Long với TFR bằng 3,9; miền núi Trung du Bắc Bộ là 4,2; Bắc Trung Bộ là 4,3 và Duyên hải miền Trung 4,6 con/1 phụ nữ. Khu vực có Tổng tỉ suất sinh cao nhất là Tây Nguyên 6,0 con/1 phụ nữ.
Cách phân chia theo vùng không cho phép những địa phương có cùng hoặc tương tự về mức sinh (TFR) vào cùng một nhóm. Chẳng hạn, Hà Nội – Bà Rịa Vũng Tàu – Côn Đảo. Ngược lại, có những tỉnh tuy cùng vùng địa lý nhưng có mức sinh rất khác nhau, ví dụ Hà Bắc (3.5) và Lai Châu (6.8). Nhược điểm của cách so sánh này là xuất phát từ tỉnh gần nhau về lãnh thổ để so sánh chứ không xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội hay mức sống gần nhau để so sánh. Vì vậy, nghiên cứu này đưa ra một cách tiếp cận khác về mức sinh là tiếp cận theo mức sống, tức là theo trình độ phát triển.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Vạch rõ mức sống ảnh hưởng đến mức sinh, từ đó khuyến nghị về chính sách khác biệt theo sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các tỉnh.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Dựa trên số liệu có sẵn và kết quả Tổng điều tra Dân số 1989 để phân nhóm các tỉnh theo mức sống và phát hiện tác động của mức sống đến mức sinh
File đính kèm: 1-Anh huong cua muc song den muc sinh (892)